Nghị định số 15/2021/NĐ-CP
nêu rõ, khi đầu tư xây dựng công trình phải có giải pháp kỹ thuật và biện pháp
quản lý nhằm sử dụng hiệu quả năng lượng, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi
trường.
Nhà nước khuyến khích xây
dựng, phát triển và đánh giá, chứng nhận công trình hiệu quả năng lượng, công
trình tiết kiệm tài nguyên, công trình xanh.
Khuyến khích áp dụng mô hình
thông tin công trình (sau đây gọi tắt là BIM), giải pháp công nghệ số trong
hoạt động xây dựng và quản lý vận hành công trình. Người quyết định đầu tư
quyết định việc áp dụng BIM, giải pháp công nghệ số khi quyết định dự án đầu tư
xây dựng.
Quy
định cụ thể về thẩm quyền thẩm định
Nghị định số 15/2021/NĐ-CP nêu rõ thẩm quyền thẩm định của
Báo cáo nghiên cứu khả thi, Báo cáo kinh tế kỹ thuật của người quyết định đầu
tư, cơ quan chuyên môn về Xây dựng; thẩm quyền thẩm định, phê duyệt thiết kế
xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở.
Quy định về áp dụng tiêu chuẩn nước ngoài
Nghị định số 15/2021/NĐ-CP
nêu rõ quy định về áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn
nước ngoài (gọi chung là tiêu chuẩn nước ngoài); tiêu chuẩn cơ sở; vật liệu và
công nghệ mới trong hoạt động xây dựng.
Theo đó, việc lựa chọn, áp
dụng tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn cơ sở phải tuân thủ các quy định của
Luật Xây dựng và quy định của pháp luật khác có liên quan.
Trường hợp áp dụng tiêu chuẩn
nước ngoài, trong thuyết minh thiết kế xây dựng hoặc chỉ dẫn kỹ thuật (nếu có),
phải có đánh giá về tính tương thích, đồng bộ và sự tuân thủ với quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia và ưu tiên sử dụng các tiêu chuẩn nước ngoài đã được thừa nhận
và áp dụng rộng rãi.
Khi áp dụng tiêu chuẩn cơ sở
thì phải có thuyết minh về sự tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và tính
tương thích, đồng bộ với các tiêu chuẩn có liên quan. Việc công bố các
tiêu chuẩn cơ sở phải tuân thủ chặt chẽ các quy định, quy trình được quy định
tại các pháp luật khác có liên quan.
Việc sử dụng vật liệu, công
nghệ mới lần đầu được áp dụng phải tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tương
thích với các tiêu chuẩn có liên quan; đảm bảo tính khả thi, sự bền vững, an
toàn và hiệu quả.
Hình thức quản lý dự án
Nghị định quy định đối với dự
án sử dụng vốn đầu tư công, người quyết định đầu tư lựa chọn hình thức quản lý
dự án quy định tại khoản 2 Điều 62 của Luật Xây dựng năm 2014 được sửa đổi, bổ
sung tại khoản 19 Điều 1 của Luật số 62/2020/QH14.
Cụ thể, người quyết định đầu
tư quyết định áp dụng hình thức Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành,
Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng khu vực (Ban quản lý dự án chuyên ngành, Ban
quản lý dự án khu vực) trên cơ sở số lượng, tiến độ thực hiện các dự án
cùng một chuyên ngành, cùng một hướng tuyến, trong một khu vực hành chính
hoặc theo yêu cầu của nhà tài trợ vốn.
Trong trường hợp không áp
dụng hình thức quản lý dự án theo quy định trên, người quyết định đầu tư quyết
định áp dụng hình thức Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng một dự án
hoặc chủ đầu tư tổ chức thực hiện quản lý dự án hoặc thuê tư vấn quản lý dự án.
Còn đối với dự án sử dụng vốn
nhà nước ngoài đầu tư công hoặc vốn khác, người quyết định đầu tư quyết định
hình thức quản lý dự án được quy định tại khoản 1 Điều 62 của Luật Xây dựng năm
2014 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 19 Điều 1 của Luật số 62/2020/QH14, phù
hợp với yêu cầu quản lý và điều kiện cụ thể của dự án.
Đối với dự án sử dụng vốn
ODA, vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài, hình thức tổ chức quản lý dự án
được áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế về ODA hoặc thỏa thuận với nhà
tài trợ. Trường hợp điều ước quốc tế về ODA hoặc thỏa thuận với nhà tài
trợ không có quy định cụ thể thì hình thức tổ chức quản lý dự án được thực hiện
theo quy định của Nghị định này.
Đối với dự án PPP, hình thức
quản lý dự án được thực hiện theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1
Điều 62 của Luật Xây dựng năm 2014 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 19 Điều 1
Luật số 62/2020/QH14 phù hợp với yêu cầu quản lý, điều kiện cụ thể của dự
án và thỏa thuận tại hợp đồng dự án.
Nguồn: Cổng thông tin Bộ Xây dựng